Kinh nghiệm thành công của nhiều nước cho thấy, hệ thống hạ tầng kỹ thuật được xây dựng và phát triển đồng bộ, hiện đại và đi trước một bước là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển đô thị bền vững.
Thực trạng phát triển hạ tầng đô thị
Ðến nay, cả nước có khoảng 760 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa ước đạt khoảng 31%. Tăng trưởng kinh tế ở khu vực đô thị trung bình đạt 12%-15%, cao gấp 1,5 – 2 lần so với mặt bằng chung của cả nước, khu vực đô thị hằng năm đóng góp khoảng 70 – 75% GDP của Việt Nam. Ðô thị đã và đang khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch kinh tế, cơ cấu lao động ở mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. Cùng với sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng của đô thị, các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị được quan tâm đầu tư cải tạo, xây dựng mới, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư đô thị. Các chỉ tiêu về cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị đã được cải thiện đáng kể. Tổng công suất thiết kế cấp nước tăng hơn ba lần so với năm 1998, đạt 6,4 triệu m3/ngày, nâng tỷ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước sạch lên 77%. Tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch bình quân giảm trung bình còn 29%. Công tác thu gom, xử lý nước thải và rác thải đã được chính quyền các địa phương quan tâm, đến nay đã có nhiều nhà máy xử lý nước thải tập trung được xây dựng và đưa vào hoạt động với tổng công suất đạt khoảng 565.000 m3/ngày đêm. Công tác thu gom, xử lý rác thải đô thị đạt 83%… Giao thông vận tải khách công cộng được quan tâm đầu tư, góp phần giải quyết ùn tắc và tai nạn giao thông tại các đô thị.
Mặc dù vậy, việc xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị còn nhiều bất cập. Tỷ lệ đất dành cho giao thông còn thấp so với chỉ tiêu quy định, hiện tượng ùn tắc và tai nạn giao thông đang là thách thức lớn hiện nay tại các thành phố lớn. Tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch tại các đô thị vẫn đang ở mức cao so với các nước trong khu vực. Nguồn nước mặt ở nhiều nơi đang bị thiếu hụt, ô nhiễm do chặt phá rừng đầu nguồn, sản xuất công nghiệp và do các hoạt động sinh hoạt của đô thị. Hầu hết các đô thị vẫn chưa có hệ thống thoát nước riêng, nước mưa và nước thải chảy chung một hệ thống. Nước thải đô thị và phần lớn khu, cụm công nghiệp chưa được xử lý xả thẳng vào nguồn tiếp nhận gây ô nhiễm nguồn nước (sông Ðồng Nai, sông Sài Gòn, sông Nhuệ,…). Bên cạnh đó, việc xử lý chất thải rắn vẫn phổ biến là chôn lấp, gây ô nhiễm môi trường và các nguồn nước, trong khi lựa chọn địa điểm chôn lấp rác thải gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra, các sản phẩm tái chế từ rác thành phân vi sinh khó tiêu thụ.
Phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ và hiện đại
Dự báo đến năm 2015, tổng số đô thị của nước ta là khoảng 870 đô thị với dân số hơn 35 triệu người, tỷ lệ đô thị hóa khoảng 38%, năm 2025 con số đô thị sẽ tăng lên khoảng 1.000 đô thị, dân số đô thị khoảng 52 triệu người, chiếm 50% dân số cả nước. Ngày 7-4-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 445/QÐ-TTg phê duyệt điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó xác định mục tiêu từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị Việt Nam phát triển theo mô hình mạng lưới đô thị; có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có môi trường và chất lượng sống đô thị tốt; có nền kiến trúc đô thị tiên tiến, giàu bản sắc; có vị thế xứng đáng, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế – xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế…
Nhằm tăng cường quản lý và phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị, góp phần thực hiện thành công định hướng phát triển đô thị trong những năm tới, cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ.
Một là, nâng cao chất lượng công tác lập và triển khai quy hoạch, kế hoạch và chương trình đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị (giao thông, cấp nước, thoát nước và xử lý chất thải rắn). Hoàn thành việc lập, phê duyệt quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật của TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh vào năm 2012 và ba đô thị trực thuộc Trung ương (Hải Phòng, Ðã Nẵng, Cần Thơ) vào năm 2012-2013. Tăng cường công tác kiểm soát và quản lý xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật theo đúng quy hoạch đã được phê duyệt.
Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực cho các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật: Ưu tiên hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn vay ODA đầu tư vào những công trình hạ tầng kỹ thuật có quy mô lớn, phục vụ liên vùng, liên tỉnh (thí dụ như: Nhà máy cấp nước liên vùng; Xây dựng hệ thống thoát nước, xử lý nước thải và chống ngập cho các đô thị lớn; Xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn liên vùng…). Ðồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị. Mở rộng các hình thức đầu tư đồng thời hoàn thiện các quy định cụ thể việc áp dụng các hình thức đầu tư này để huy động các nguồn lực tham gia đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật (đặc biệt phát huy sự tham gia của khu vực tư nhân, các thành phần kinh tế khác như là một đối tác quan trọng trong phát triển hạ tầng kỹ thuật).
Ba là, Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan đến phát triển hạ tầng kỹ thuật. Nghiên cứu, ban hành quy định về giá tiêu thụ nước, đổi mới việc thu phí thoát nước theo hướng tiệm cận với giá thị trường bảo đảm nhà đầu tư thu hồi chi phí cũng như bảo đảm duy trì, bảo dưỡng vận hành hệ thống thoát nước và xử lý chất thải. Ðồng thời có chính sách hỗ trợ các hộ nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chi phí thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn nhằm khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực này. Có chính sách ưu đãi đặc thù đối với các dự án có hiệu quả xã hội lớn (đặc biệt hiệu quả về môi trường) nhưng hiệu quả kinh tế thấp, ít hấp dẫn đối với nhà đầu tư như hỗ trợ cho việc thu gom, vận chuyển chất thải rắn khu vực nông thôn, hỗ trợ cho việc nghiên cứu và chế tạo thiết bị xử lý sử dụng công nghệ trong nước, hỗ trợ cho việc tiêu thụ sản phẩm tái chế, tái sử dụng rác thải… và các dự án liên quan đến xử lý nước thải.
Bốn là, Ðẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý, hoạch định cơ chế và chính sách; cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư vấn đầu tư, xây dựng và quản lý vận hành công trình hạ tầng kỹ thuật.
Năm là, Ðẩy mạnh công tác nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các công nghệ trong nước: Công nghệ xử lý chất thải rắn, công nghệ xử lý nước thải, công nghệ vật liệu thay thế… áp dụng các công nghệ tiên tiến và hiện đại trong triển khai thi công xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đồng thời xây dựng các mô hình quản lý tiên tiến trong quản lý, khai thác và vận hành các công trình hạ tầng kỹ thuật.
Sáu là, Nghiên cứu ban hành cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng và giữa các địa phương trong việc quy hoạch, huy động các nguồn lực, đầu tư xây dựng và quản lý, khai thác, vận hành các công trình hạ tầng kỹ thuật mang tính liên vùng, liên tỉnh.
Theo kienviet.net