0971.659.624 thuvienxaydungvn@gmail.com
Phố trong tiến hóa đô thị

1

Văn minh cộng cư tiến hoá theo chuỗi: Làng - phố - đô thị - siêu đô thị, thời nay. Tuỳ thuộc bởi sự chuyển động của xã hội, sự đột biến trong phát triển, mà khoảng cách giữa chặng này và chặng khác, từ làng đến đô thị, có thể dài hoặc ngắn, có thể nảy sinh những quá độ.

Trong lịch sử phát triển đô thị Việt Nam, chặng đường từ làng đến thị, đặc biệt kéo dài. Phố, cấu trúc chuyển tiếp giữa hai thiết chế ấy, có vai trò sâu sa trong sự định hình những đặc trưng văn hoá thị thành Việt.

Phố ra đời tiếp theo những thành luỹ, thủ phủ, chợ và bến. Phố, ăn theo thành luỹ và trung tâm cai trị, thường ít nhiều quy củ. Tồn tại bên cạnh những cấu trúc quyền lực ấy, phố dần dà biến thành phố thị, hút người – hút của – hút tinh tuý từ các chốn làng quê. Kẻ chợ ở kinh thành Thăng Long vốn là cái nơi chốn, duy nhất như thế trong nhiều thế kỷ . Hầu hết phố ra đời cùng hoặc sau khi chợ ra đời. Chợ - phố, phố - chợ, cộng sinh, tạo ra những phức hợp cộng cư đặc trưng, khác thôn quê, song còn lâu mới trở thành thành thị. Xưa kia, nói đến chợ nào là ám chỉ phố nấy và phố nào là chợ nấy. Bến là nơi thuyền đậu, hàng hoá chở về và đem đi. Có bến ắt có phố. Bến - phố, cảng - phố, tuềnh toàng và lam lũ, song lại là nơi cái sự chuyển động, cái sự va chạm dễ đem lại tiền bạc. Người trú ngụ hoặc vãng lai dễ bề phát tài.

Thời xưa, phát tài không đồng nghĩa với phát sang, lắm kẻ sang, mà đâu có phát tài.

2

Phố, dù tồn tại hàng trăm năm trên một mảnh đất, về cấu trúc không gian, về kiến trúc, luôn đơn sơ. Thoạt đầu là hai dãy nhà liền kề trên một đoạn đường. Dần dà nối dài ra. Dài quá, thì dựng thêm những dãy phố phía sau. Sự co cụm dễ làm ăn và dễ nương tựa. Hai dãy phố, thông ngang sang nhau cho tiện liên hệ, tạo nên con ngõ. Ngõ chỉ là lối đi, không có mặt.

Nhà phố bao giờ cũng có mặt bằng hình chữ nhật. Mặt ngắn, dăm ba thước, quay ra đường, lấy chỗ ra vào và làm ăn, hãn hữu để khoe giàu khoe sang, một cách nhũn nhặn. Sau nhà dành chỗ cho bếp núc, cho những gì cần sự khuất mắt và, hầu như ở mọi nhà, dành ra mảnh đất, hẹp thì trồng rau, rộng thì đào ao thả cá. Người phố xưa, dù làm quan, dù làm nghề gõ đầu trẻ con, dù buôn bán phát đạt, ai ai cũng phải tính chuyện tự cung tự cấp một phần. Có thể do thói quen từ chốn quê. Đúng hơn, do chẳng mấy ai đủ ăn, nếu chỉ làm một nghề. Ngay cả làm quan.
Nghe kể, hay tin Hoàng Diệu tuẫn tiết, người vợ ngã sấp mặt xuống ruộng.

Cái nhà mặt phố, nhà hàng phố cổ truyền làm bằng gỗ và tre, vách đất, kha khá hơn thì xây tường gạch, lợp lá cọ hoặc rơm rạ, hầu hết một tầng, họa hoằn cơi gác xép, chưa hẳn là lầu. Mặt trước mở lối đi lại và một ô cửa khá rộng, mở và đóng bởi những tấm ván dựng đứng, có đánh dấu cho tiện tháo ghép. Là ô cửa, khép lại là chính. Lối sống, phố, ở sát kề và đối mặt nhau, hễ biết giấu giếm, là khéo ăn khéo ở. Thói quen khép mình trong sự cộng cư, cộng sinh với muôn vàn những lệ và ước lệ, tạo cho lắm người sở hữu những con mắt, y hệt ô cửa nhà phố, chỉ nhìn ra khi cần, đảo vào trong là chính. Diện mạo từng căn nhà, từng con phố, hầu như không khác nhau là mấy. Cũng theo cách nghĩ cố đế nói trên, chủ nhân e ngại trưng mình, lấy sự giông giống thiên hạ làm cái cốt cho sự chung sống. 

Đó là chỗ khác biệt giữa dân phố, xưa và nay. Đó là sự lý giải phần nào cái thói ghen ghét ai nổi, ai hơn mình.

Cho đến cuối thế kỷ 19, đường phố ngay cả ở Hà Nội, chưa lát gạch và đá, chưa phủ lớp nhựa đường. Vỉa hè cũng chưa thấy có. Nhà chưa có tầng lầu, đa phần thấp lè tè, không ít là nhà tranh vách đất. Đọc lưu trữ Pháp, thấy quan đốc lý thời ấy ra văn thư, cấm tuyệt việc làm nhà lá, e hỏa hoạn. Ấy thế, cấm đoán dân phố chẳng dễ gì, cho đến những năm 50 thế kỷ trước, vẫn còn thấy những mái nhà lá. Kiểu nhà gạch mái ngói, hai hoặc họa hoằn ba tầng, chỉ phổ biến từ sát cuối thế kỷ 19 và thịnh hành ở nửa đầu thế kỷ 20. Chẳng hiểu vì sao, có những nhà bảo tồn nhiệt thành lại quy chúng vào diện cổ. Cha mẹ tôi, sinh ra cùng thời, không rõ nghĩ sao. Gần đây anh em kiến trúc sư, sử dụng thành thạo công nghệ 3D, phỏng dựng hình dạng phố xưa Hà thành, quy củ và khang trang, như thiết kế. Sản phẩm, đi ra từ hoài cổ và từ thành tựu của hi-tech, mang lại cho ta những cảm xúc phấn khích cùng sự ngờ ngợ: có phải thế chăng? Dĩ vãng, dù căn cứ hóa tối đa bởi chứng cứ phi vật thể và vật thể, vẫn là ảo, phủ lấp trong màn sương màu xanh lơ – hồng tím, nhạt nhòa.

Chưa có đủ tư liệu, để nói rằng ở ta thời xa xưa đã tồn tại nhiều những phố và phố thị, dạng Vân Đồn, Phố Hiến, Phai Phô, Chợ Lớn … Song, chắc chắn, ở đầu thế kỷ 19, vua Minh Mạng, nhà hoạch định lãnh thổ hành chính và đô thị kiệt xuất trong lịch sử nước ta, đã khai sinh hàng chục thủ phủ của những đơn vị tỉnh do Ông phân định. Cùng với đó là sự ra đời tiếp theo những cái phố, định hình khá mau lẹ và tạo nên những cái tạm gọi là cốt cách riêng. Phố Sơn Tây (các cụ gọi là phố Sơn), phố Bắc Ninh, phố Tuyên Quang (các cụ gọi là phố Tuyên), phố Lạng Sơn, phố Nam Định, phố Hải Dương, phố Đồng Hới … Thủ phủ nào cũng xây thành lũy và đi kèm là phố. Ở Sơn Tây, ở Nam Định, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Yên, Đồng Hới, Quảng Trị .. vẫn còn khá nguyên vẹn dấu vết. Người Pháp, từ nửa sau thế kỷ 19 và nhất là ở phần đầu thế kỷ 20, đã cho ra đời những cấu trúc ban đầu của đô thị sau này, như Hải Phòng, Lào Cai, Touran-Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá … Trong một quãng thời gian khá dài, chúng vẫn tiếp tục là những cái phố. Dù mình mẩy đô thị Tây đã hiện diện, nhiều trường hợp tưởng như trọn vẹn, song cốt và hồn phố ta, bền và dai, vẫn còn khả năng “ta hóa” cái mẫu ngoại, đi ra từ sự sắp xếp, sự toan tính theo quy hoạch sơ đồ hóa. 

Sức sống và cái riêng, không dễ lẫn lộn, của đô thị Việt Nam, ngay cả của Sài Gòn thời nay, chính là ở đấy.

3

Trong lịch sử, phố không tạo nên những quỹ vật chất đáng kể. Ngay cả ở Thăng Long – Hà Nội, ở kinh đô Huế. Phố hầu như không tạo nên quỹ vật chất công cộng. Phố, về bản chất, là sự tập hợp tự phát những sở hữu đơn lẻ, ít gắn bó với nhau như thiết chế làng. Phố, duy trì và mở mang hầu như tự phát, cho nên cũng dễ hiểu, chưa thể tạo nên những giá trị đáng kể về kiến trúc và thẩm mỹ.

Vai trò của phố chính là ở chỗ nó góp phần chuyển hóa xã hội, tuy hết sức chậm chãi và không dễ nhận ra, từ chế độ phong kiến nghìn năm sang giai đoạn nảy sinh và định hình những quan hệ kinh tế thị trường sơ khai. Nó thúc đẩy dòng chảy xã hội, khắc phục ở chừng mực có thể sự trì trệ của thiết chế làng, dễ bị đánh đồng với sự bền vững. Phố góp phần biến đổi xã hội từ bản chất, từ trong ra, bằng sự gia tăng tốc độ biến chuyển và bằng sự đa dạng hóa, phố tạo ra động lực cho xã hội. Tuy nhiên, nên hiểu tính hạn chế của thuật ngữ này, bởi phố Việt là sản phẩm của sự tiến hóa, luôn kèm theo lực quán tính của xã hội Phương Đông.

Nói đến phố là nói đến hàng hóa, lưu thông hàng hóa, cửa hiệu và, đương nhiên, là chợ. Phố chưa xuất hiện, thì chưa thể có sự thu gom, tập trung, sàng lọc, trao đổi, lưu thông hàng hóa ở phạm vi lãnh thổ rộng lớn hơn là vài ba thôn làng, sự nâng cao chất lượng và đa dạng hóa hàng hóa, dần dà dẫn tới chuyên canh và chuyên sản. Với sự ra đời những con phố, nền kinh tế tự cung tự cấp, mô hình sống “sinh học – sinh thái” khép kín trong khuôn khổ mỗi gia đình và mỗi thôn làng, hé mở dần. Lưu thông hàng hóa, tất yếu, dẫn tới lưu thông hành vi và sự thông thoáng hơn trong tư duy.

Phố, với thị trường, xúc tác sản xuất hàng hóa ở thôn quê, tranh thủ nguyên liệu tại chỗ và thời gian nhàn dỗi giữa các thời vụ. Nhu cầu xã hội nhiều và cao hơn, phố trở thành nơi tập hợp những tay nghề và ngón nghề từ khắp nơi, ban đầu là sản xuất nhỏ lẻ, rồi hợp thành hiệp và thành phường.

Thành những phố chuyên sản, chuyên một mặt hàng.

Hàng hóa, lưu thông trong vòng cung – cầu, biến phố thành địa bàn của cạnh tranh. Cạnh tranh giữa hàng với hàng; giữa người sản xuất, người cung cấp và người phân phối. Cạnh tranh giữa tiệm này và tiệm khác, phố này và phố khác. Cạnh tranh trong sự cải tiến và nâng cấp mặt hàng, đào luyện người thợ, người bán và người buôn. Rốt cuộc, phố trở thành cơ thể sôi động, bề ngoài và ngấm ngầm, tạo ra những chuẩn mực mới, những thước đo mới về đồng tiền, giàu – nghèo, hèn – sang … Cùng với cạnh tranh, xuất hiện tự nhiên yếu tố thương hiệu. Thoạt đầu là hàng tốt hơn, nơi làm hàng tốt hơn, rồi tiệm và rồi phố bán hàng có tín nhiệm … Không quản ngại đường xá, người cần hàng tốt, người sành điệu, tìm tới. Phố xưa, khá giả lên chính từ sức cạnh tranh bền bỉ, đơm trái bởi thương hiệu. Thương hiệu chẳng to tát là bao, truyền khẩu là chính. Thương hiệu, không cần đến biển quảng cáo rõ to treo trên mặt nhà. Nhiều con phố Hà thành, mệnh danh bằng tên một mặt hàng, chính là sự tự xưng bởi thương hiệu.

Người làng chung sống bởi nghề ruộng, bởi quan niệm cố hữu về nơi chôn nhau cắt rốn, bởi những quan hệ huyết thống, bởi hương ước và bởi hàng trăm thứ ràng buộc bất thành văn. Người phố, hội tụ từ tứ phương, chung sống bằng sự quen biết trong làm ăn, bằng sự ngó nhìn sang nhau mà ứng xử, lâu la thành cách và thành nếp sống chung, thành tập quán và, cao hơn, thành văn hóa sống nơi thị thành. Phố quần tụ, nhào trộn, dung hòa, tinh lọc và kết tinh khuôn mẫu người thị thành, hết sức đặc trưng của cộng đồng phố Việt. Nét đặc trưng ấy tạo nên bởi sự khác biệt chưa hẳn rõ rệt, bởi khoảng cách chưa xa, giữa làng và phố. Xã hội nông nghiệp vốn hầu như toàn phần; quan hệ hàng hóa tư bản chủ nghĩa sơ khai và lại hình thành muộn mằn, không thể đẩy nhanh thiết chế phố về phía đô thị, đúng với nghĩa của nó. Là người phố, người thành thị mà một chân vẫn đặt ở quê, theo nghĩa đen, duy trì phần nào lối nghĩ và cung cách hành xử một nửa từ quê. Chuỗi chuyển hóa: người quê thoát ly – người chạy chợ - người làm hàng – người đứng hiệu – người làm công – người làm thầy và làm trí thức … luôn luôn diễn ra ở khắp các chốn thị thành lớn nhỏ, cho đến tận nay.

Với những đặc điểm như thế, phố chưa thể góp phần mạnh mẽ vào sự phân tầng và đẳng cấp hóa xã hội, cả về phương diện sở hữu quyền quý lẫn học thức. Ở nửa đầu thế kỷ trước, dưới ảnh hưởng của Pháp, xuất hiện tầng lớp dân phố kiểu mới, - tiểu tư sản. Họ không chỉ là những chủ sở hữu nhỏ, họ còn là những người ít nhiều có Tây học, hấp thụ nhạy bén văn hóa và lối sống Tây. Họ góp phần tạo nên cuộc hội nhập quốc tế đầu tiên ở ta, với tiểu thuyết và thơ mới, với âm nhạc, hội họa và sân khấu, với các phong trào cách tân và thanh niên, với cách sống và cách hưởng thụ, kết hợp khá tự nhiên Tây – Ta. Phố Việt cổ truyền biến đổi nhanh, có thêm những sắc thái mới mẻ. Nền sản xuất nhỏ và nền thương mại nhỏ, ở Hà Nội và Sài Gòn, mau lẹ mở rộng ra, xuất hiện những nhà tư sản, những nhà kỹ-thương đầu tiên. Những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt đã làm ngưng đọng quá trình này. Đó là một phần lý do của sự lưu tồn khu phố cổ Hà Nội, hầu như nguyên vẹn về thể xác, cho đến thời Đổi mới.

Nói đến phố trong công cuộc đô thị hóa ở nước ta, không thể và không nên tách lìa quỹ vật chất, quỹ kiến trúc đô thị ra khỏi “tòa kiến trúc” xã hội, cả hai thành tố cứng – mềm đan quện trong một cơ thể xưa cũ và mảnh dẻ, - phố.

Kiến trúc thành thị Việt là kiến trúc phố.

Người thành thị Việt là người phố.

Kiến trúc phố xưa và kiến trúc đô thị nay được xây dựng chủ yếu bởi tư duy Người phố, như thể “3 trong 1”, - tiểu nông, tiểu thương, tiểu chủ. Vài chục năm nay hình thành tầng lớp dân phố đặc trưng, - tầng lớp cán bộ. Bị tư duy thời bao cấp chi phối, họ vẫn không đứng ngoài cái công thức “3 trong 1” ấy, chưa suy xuyển ngay cả hôm nay.

4

Kiến trúc sư Võ Thành Lân, sâu và sắc, nhận diện 2 sản phẩm đầu ra của các đô thị Việt Nam thời kỳ quá độ: Nhà chia lô và xe máy.
Xe máy vào cuộc ồ ạt do xe đạp không còn thích hợp và xe hơi thì chưa với tới. Xe máy tạo nên vấn nạn giao thông và vấn nạn môi trường. Song nó chỉ là quá độ, không thể trở thành ứ tồn đô thị.

Nhà chia lô lại khác.

Nhà chia lô xây dựng ồ ạt sau sự bãi bỏ chính sách không tưởng về bao cấp nhà ở và người thành phố có được những điều kiện để sở hữu có nhà riêng: quyền làm chủ một lô đất trên phố, quyền tự lực xây cất, khả năng về tài chính, thị trường vật liệu và thiết bị. Nhà chia lô được người dân chọn như mô hình cư trú phù hợp hơn cả, bởi nó vừa dùng để ở, vừa để mở cửa tiệm, dịch vụ, cho thuê. Nó thành nguồn thu nhập chính hoặc phụ cho những người làm công ăn lương. Vẫn như nhà phố thời xưa, nó sinh lời. Đó là nguyên nhân đầu tiên và quyết định sự trở lại với mô hình nhà ống mặt phố cũ kỹ. Nó là sự hiện thân tuyệt vời của tư duy linh hoạt, tư duy thiết thực của dân phố thị Việt, một sản phẩm duy nhất có thể từ những điều kiện kinh tế - xã hội vô cùng hạn hẹp, từ sự tự đáp ứng nhu cầu bức bách về chỗ ở và từ một chủ định thỏa hiệp, mang bản chất nhân văn, của phía những nhà chức trách. Tuyệt nhiên, sự ưu tiên mô hình nhà chia lô không chỉ xuất phát từ thói quen hoặc sự lạc hậu về kiến thức xây dựng đô thị, điều mà giới kiến trúc chuyên nghiệp phê phán.


Hội An 

Ở các cấu trúc cộng cư dạng đô thị và dạng đô thị hóa hiện nay, nhận rõ: Ở tầm vi mô, đang tiếp tục thịnh hành nhà chia lô mặt phố - cửa hàng, những cơ sở dịch vụ kinh doanh nhỏ lẻ. Hình thành trở lại mô hình phố - thương mại, phố chuyên doanh; duy dưỡng những mối quan hệ “lối xóm” xưa cũ mà không phụ thuộc bởi một đơn vị hành chính. Ở tầm vĩ mô, đang diễn ra, ngoài và vượt qua mọi chủ định quy hoạch, hiện tượng “phố hoá” các con đường, các trục đường lớn, ngay cả các xóm làng, phát triển mà thiếu sự chỉ dẫn. Từ cả hai tầm “vi” và “vĩ” ấy, các đô thị ở ta, đang trở nên hiện đại hơn, mà vẫn chưa thoát khỏi cái phức hợp tế bào – “phố”. Đó là bản chất, là đặc thù, mà nhà quy hoạch, nhà chính sách và nhà quản lý phải tính tới, tính tới một cách thấu triệt, có thể hơn thế nữa, một cách cầu thị. Như thể với thiên nhiên, với trời đất vậy.

Quy hoạch đô thị,  bởi thế, không thể là sự “hoạch” và sự “định” đơn thuần. Quy hoạch chỉ thật sự có tác dụng và có sức sống, khi nó chứa đựng trong mình và khi nó xuất phát từ những yếu tố “mềm”, như sự khơi dòng cho cái “có” chảy vào cái “chưa”, như sự điều tiết và điều hoà, nối kết và hoà đồng những sản phẩm lịch sử và sản phẩm văn hoá đô thị, cấu thành một thể, - đô thị mới. Đô thị tiến hoá, song thường không chỉ tiến, mà còn chững, còn ngoái. Xu hướng “phố hoá”, đi ngược hiện đại hoá, chính là sự “ngoái lại”, nảy sinh bởi hoàn cảnh. Nó tạo ra giai đoạn “đệm”, sự chuyển hoá mềm. Trong trường hợp này, tiến hoá đô thị chỉ đi được một bước rất ngắn, song tuần tự, bởi hợp với tự nhiên.

Cùng với hiện đại hoá và toàn cầu hoá, đô thị hoá ở ta đang đi những bước dài và nhanh tột bậc. Hà Nội, mở rộng theo quyết định hành chính và theo quy hoạch, thành phố Hồ Chí Minh, bành trướng lãnh thổ do sự bùng nổ không gian kinh tế, đang tạo ra những khoảng cách xa vời giữa những cấu trúc thôn làng, phố phường, và những mũi nhọn bứt phá của thời đại, không chấp thuận sự ngoảnh ngoái nào. Chúng ta chẳng những đứng trước nguy cơ tan vỡ những “tổ người” - cấu trúc cộng cư truyền thống, trước nguy cơ chúng bị bật khỏi gốc và bứt khỏi rễ. Chúng ta sẽ phải đối mặt với vô vàn những vòi bạch tuộc của mô hình đô thị, sản sinh những mâu thuẫn đối kháng và những căn bệnh nan y.

Xử sự thế nào đây?

Lối ra, có lẽ, ở sự chủ động tạo ra những hình thái, những cơ chế “chuyển hoá mềm”.

Quá trình đô thị hoá lâu nay vốn đã tạo ra những cấu trúc chuyển hoá mềm, tự phát hoặc chủ định. Vùng ngoại ô các thành phố lớn đã là những không gian chuyển hoá mềm, giữa đô thị và nông thôn. Nơi đấy, dân cư vừa làm ruộng vừa làm nghề, kiến trúc nửa quê nửa tỉnh, người dân ít còn là dân quê, song chưa trở thành dân phố. Ở Hà Nội đầu thế kỷ 20, không gian Hồ Hoàn Kiếm đã trở thành sự nối kết hết sức ổn thoả giữa khu phố ta và khu phố Tây.

Có thể đô thị Hà Nôi hiện tại cũng tự nó hình thành một sự chuyển hoá mềm ở tầm vĩ mô: Các đường phố, ô phố và khu vực xây dựng vài chục năm lại đây, đang mở ra khả năng gắn kết thành một thể trung tâm thủ đô hiện hữu với trung tâm thủ đô quy hoạch. Hàng ngàn thôn làng trên lãnh thổ thành phố mở rộng, đang phát triển mà không có đường hướng, sẽ biến thành vùng ngoại ô mới của ngoại ô cũ hay hướng cho chúng tiến lên thành những nông thị (agrotown), nằm trong một megacity đích thực hiện đại, kết hợp trong mình thành phố hiện đại và nông thôn đô thị hoá chủ động? Người viết những dòng này có ý định trình bày suy nghĩ của mình về agrotown và megaagrocity trong một bài viết khác. Ở tầm vĩ mô hơn, thiết nghĩ nên quy hoạch ở trong các khu đô thị quốc tế hoá những cấu trúc chuyển tiếp mềm, cả về phương diện cảm thụ không gian đô thị lẫn thói quen ăn ở - đó là cấu trúc “xóm phố”: nhà liền kề, quán ăn, cửa hàng, tiệm này tiệm nọ. Nơi đó người ta bớt đi sự bỡ ngỡ, khi tâm thức “phố” vẫn đeo đuổi. Nếu ta không chủ động cấu trúc ấy, thì dân vẫn có cách “Việt hoá” những khu đô thị mới chỉn chu kia. Và, hình ảnh tất yếu sẽ nảy sinh, - sự manh mún và luộm thuộm, cố hữu của những con phố muôn thưở ...

Cùng với công cuộc hiện đại hoá và đô thị hoá tốc hành, những quá trình tiến hoá từ làng sang phố và từ phố sang đô thị, từ người thôn quê sang người thành thị, đang diễn ra theo những quy luật riêng của chúng. Hễ ta nhận thức sâu sa 2 quá trình chuyên biệt này và chủ động chúng trong hoạch định chiến lược phát triển, trong quy hoạch và quản lý đô thị, thì ắt mô hình đô thị Việt sẽ tạo tác nên.

Hiện đại, song vẫn là nơi chốn.

Viết tại Ba Lan, tháng 12 năm 2010

GS.TS.KTS Hoàng Đạo Kính

Nguồn tin: ashui
  • Tags