Việt Nam là quốc gia có hệ thống sông ngòi dày đặc với 106 lưu vực sông lớn nhỏ, bao gồm khoảng 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10km trở lên. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu (BĐKH), gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tình trạng khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngày càng căng thẳng, việc xây dựng Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050 trở nên hết sức cấp thiết.
Quy hoạch được thực hiện trên phạm vi toàn quốc, bao gồm tất cả các lưu vực sông liên tỉnh, liên quốc gia, cũng như các đảo như Phú Quốc, Côn Đảo, Lý Sơn, Bạch Long Vĩ... Các lưu vực sông lớn như Hồng – Thái Bình, Cửu Long, Đồng Nai, Vu Gia – Thu Bồn… là những đối tượng trọng tâm của quy hoạch.
Được Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, quy hoạch tài nguyên nước lần này mang tính tổng thể, chiến lược, định hướng dài hạn nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước, bảo vệ hệ sinh thái, phát triển bền vững kinh tế - xã hội và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Quy hoạch này được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các luật hiện hành như Luật Quy hoạch năm 2017, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, cùng các quyết định, nghị quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Đặc biệt, Quyết định số 1748/QĐ-TTg ngày 04/12/2019 đã phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, đánh dấu bước khởi đầu quan trọng cho quá trình xây dựng và triển khai quy hoạch này.
Tài nguyên nước của Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng. Khoảng 60% lượng nước mặt đến từ ngoài lãnh thổ, khiến Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguồn nước quốc tế. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu nước vào mùa khô, ô nhiễm nguồn nước, khai thác vượt mức và ảnh hưởng của BĐKH như hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt, sạt lở… ngày càng gia tăng.
Nhu cầu sử dụng nước của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, đô thị ngày càng tăng, trong khi hạ tầng xử lý nước thải còn yếu kém. Điều này dẫn đến mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng và phân bổ tài nguyên nước giữa các ngành, vùng và giữa thượng lưu – hạ lưu.
Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Bảo đảm an ninh nguồn nước, ngăn chặn suy giảm tài nguyên nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả” là một trong những đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021–2030. Quy hoạch tài nguyên nước được kỳ vọng là công cụ quan trọng giúp cụ thể hóa định hướng đó, đồng thời góp phần thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs), đặc biệt là Mục tiêu 6: "Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người".
Quy hoạch tài nguyên nước được xây dựng trên cơ sở tiếp cận tổng thể, tích hợp, bảo đảm tính liên ngành và gắn với phát triển kinh tế - xã hội tại các lưu vực sông. Cách tiếp cận kết hợp giữa quản lý theo lưu vực sông và theo đơn vị hành chính, phù hợp với đặc điểm địa lý, kinh tế và xã hội của từng vùng.
Đặc biệt, quy hoạch chú trọng tính công bằng, hợp lý trong khai thác, sử dụng nguồn nước liên quốc gia, đảm bảo chủ quyền quốc gia và tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là tại các lưu vực sông Mê Công và Hồng.
Phương pháp lập quy hoạch được triển khai bài bản, bao gồm các bước: thu thập, khảo sát, điều tra dữ liệu thực địa; kế thừa kết quả các quy hoạch lưu vực sông đã thực hiện; sử dụng các mô hình thủy văn hiện đại như Mike-NAM, Mike-Hydro để dự báo và phân tích tài nguyên nước; tính toán cân bằng nước nhằm đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng của các ngành kinh tế; tham vấn ý kiến chuyên gia, tổ chức hội thảo lấy ý kiến các bên liên quan…
Quy hoạch cũng được hỗ trợ kỹ thuật bởi các chuyên gia quốc tế thông qua Tổ chức Cộng tác vì Nước (AWP) của Úc – quốc gia có kinh nghiệm hàng đầu về quản lý tài nguyên nước trong điều kiện khan hiếm.
Cơ sở dữ liệu được xây dựng từ nhiều nguồn đáng tin cậy: Niên giám thống kê quốc gia, số liệu quan trắc tại 377 trạm thủy văn, 194 trạm khí tượng, 755 điểm đo mưa và các kịch bản BĐKH. Ngoài ra, quy hoạch còn dựa vào thông tin về hiện trạng và nhu cầu sử dụng nước do các Bộ, ngành và 62 tỉnh, thành phố cung cấp (trừ Hà Nội và Bộ NN&PTNT chưa gửi số liệu tại thời điểm thống kê).
Các số liệu này giúp đánh giá hiện trạng khai thác nước, nhu cầu sử dụng nước trong các lĩnh vực như nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt, và làm cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý và phân bổ tài nguyên nước hiệu quả, bền vững.
(HUYCUONG-ACUD24)